Điều trị Ung Thư máu tại Hàn Quốc

Căn bệnh bạch cầu rất khó chịu đối với bệnh nhân, đặc biệt là vì việc điều trị có thể dẫn đến các tác dụng phụ lâu dài. Đây là điều mà ngay cả những bệnh nhân trưởng thành cũng gặp khó khăn trong việc giải quyết. Khi nói đến bệnh nhi mắc bệnh bạch cầu, việc chẩn đoán có thể có tác động đáng kể trong suốt cuộc đời của họ.
Thêm vào đó là số lượng bác sĩ nhi khoa ở Hàn Quốc đang giảm nhanh chóng, và người ta có thể tưởng tượng những khó khăn mà trẻ em mắc bệnh mãn tính phải đối mặt. May mắn thay, một số bệnh viện lớn đã và đang cải thiện các phương pháp điều trị và nhiều dịch vụ chăm sóc khác cho các bệnh nhân trẻ mắc bệnh bạch cầu. Một trường hợp điển hình là Trung tâm Huyết học-Ung thư Trẻ em tại Bệnh viện St. Mary’s Seoul. 



 ( Bệnh viện St. Mary’s Seoul )

Tỷ lệ sống sót khác nhau tùy thuộc vào loại bệnh bạch cầu. Ví dụ, trong trường hợp bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp tính, bệnh bạch cầu phổ biến nhất ở trẻ em, bác sĩ Chung lưu ý rằng 8 trong số 10 bệnh nhân hiện đang sống sót trên toàn thế giới.

Bác sĩ Chung Nack-gyun "Tuy nhiên, Bệnh viện St. Mary's Seoul ghi nhận tỷ lệ sống sót cao hơn khoảng 90%", ông nói. "Điều này trở nên khả thi vì bệnh viện tiến hành điều trị bằng cách xác định các yếu tố nguy cơ gây bệnh bạch cầu và điều chỉnh cường độ điều trị theo nhóm nguy cơ."

Bên cạnh sự gia tăng tỷ lệ sống sót, Bác sĩ Chung vẫn lo ngại về các vấn đề mà cộng đồng y tế địa phương cần giải quyết.

Ông nói: “Không giống như các bệnh Ung thư mà người lớn mắc phải, Ung thư ở trẻ em, bao gồm cả bệnh bạch cầu, rất hiếm gặp. “Vì không có nhiều bệnh nhân nên rất khó tuyển chọn đối tượng cho các thử nghiệm lâm sàng và phải mất nhiều thời gian để xác minh hiệu quả của một loại thuốc mới.”

Ông nói thêm, vấn đề nghiêm trọng hơn là ngay cả khi một loại thuốc mới được phát triển có tác dụng nhanh hơn và ít tác dụng phụ hơn các loại thuốc hiện có, các bệnh viện địa phương cũng không thể sử dụng nhiều loại thuốc mới như vậy do thiếu quyền lợi bảo hiểm.

"Vì vậy, chúng tôi thường phải sử dụng các loại thuốc khác có hoàn tiền, nhưng một số trẻ bị tác dụng phụ nghiêm trọng, chẳng hạn như nôn mửa và đau dữ dội ở chân tay", ông nói. "Mặc dù chúng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc sử dụng thuốc, nhưng tôi rất đau lòng khi nhìn thấy những đứa trẻ phải chịu quá nhiều đau đớn."

Chăm sóc giảm nhẹ cuối đời cũng quan trọng như điều trị

Vì rất khó để dự đoán diễn biến của các bệnh nghiêm trọng ở trẻ em và thanh thiếu niên, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị cung cấp cả điều trị và chăm sóc giảm nhẹ ngay từ khi chẩn đoán.

Ông nói: “Hiện tại, chín bệnh viện của Hàn Quốc đang tiến hành một dự án thí điểm chăm sóc giảm nhẹ và mỗi bệnh viện đang cung cấp các dịch vụ với một tên chuyên biệt. "Lý do chúng tôi đặt tên cho chương trình của mình là Solsolbaram là để giảm bớt hình ảnh tiêu cực về chăm sóc giảm nhẹ, vì nhiều người có xu hướng nghĩ rằng đó chỉ là chăm sóc cuối đời. Chúng tôi hy vọng rằng các bệnh nhân và gia đình của họ, những người cần được chăm sóc nhiều hơn, có thể sử dụng dịch vụ này .”

Do tiến triển của bệnh, bao gồm Ung thư ở trẻ em, khác nhau ở trẻ em và thanh thiếu niên, và tiên lượng khó dự đoán trong nhiều trường hợp, Solsolbaram cung cấp dịch vụ chăm sóc cho bệnh nhân và gia đình họ bất kể giai đoạn tiến triển của bệnh kể từ khi bệnh nhân được chẩn đoán 

Bác sĩ Chung nhấn mạnh rằng việc chẩn đoán mắc bệnh bạch cầu gây rất nhiều căng thẳng cho bệnh nhân và cha mẹ của họ. Ông nói: “Khi các bác sĩ nhi khoa Ung thư huyết học bận rộn với việc điều trị, việc tham gia sâu và thể hiện sự quan tâm đến các khía cạnh cảm xúc của những bệnh nhân này và gia đình của họ là có giới hạn. "Tôi đã mơ ước từ lâu là có một hệ thống nơi các chuyên gia chăm sóc giảm nhẹ được đào tạo chuyên nghiệp, bác sĩ tâm thần, nhóm công tác xã hội và y tá làm việc cùng nhau để cung cấp sự hỗ trợ như vậy." Bác Chung cho biết ông thực sự hy vọng rằng dự án thí điểm sẽ được nhân rộng ra tất cả các bệnh viện.

Tổ chức y tế thân thiện với bệnh nhân nước ngoài

Dù không nhiều bệnh nhân Ung thư máu từ nước ngoài về nhưng bệnh viện đã tiếp nhận những bệnh nhân có nhu cầu ghép tế bào gốc tạo máu.

“Hầu hết các yêu cầu đến từ Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE), vì họ yêu cầu ghép tế bào gốc tạo máu do thiếu hồng cầu, chẳng hạn như bệnh thiếu máu thalassemia và bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm,” bác sĩ Chung nói và cho biết thêm rằng Bệnh viện St. Mary's Seoul cung cấp dịch vụ đặc biệt chăm sóc bệnh nhân quốc tế.

“Khi bệnh nhân nước ngoài đến bệnh viện, Trung tâm Y tế Quốc tế của chúng tôi cung cấp nhiều hỗ trợ khác nhau,” bác sĩ Chung nói. "Khi bệnh nhân UAE đến lần đầu tiên, tôi đã chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước."

 “Cha mẹ có con ốm ở đâu cũng giống nhau,” bác sĩ Chung nhớ lại. "Mặc dù nhân viên y tế phải mất gấp đôi thời gian để giải thích quy trình điều trị, bệnh nhân nước ngoài và cha mẹ của họ dường như cảm thấy sự chân thành của chúng tôi trong việc giải thích quy trình và mong họ thông cảm và hợp tác."

MANAM là đại diện chính thức của bệnh viện St.Mary hỗ trợ bệnh nhân Việt Nam tiếp cận và đến gần hơn với nền y tế tiên tiến vì tại đây chúng tôi sẽ có những phương án điều trị hiệu quả hơn trong nước và tại Singapore về Ghép tủy ghép tế bào gốc tạo máu chữa Ung thư máu ở trẻ em:

1. Liệu pháp nhắm mục tiêu phù hợp phát triển hy vọng chữa khỏi bệnh bạch cầu ở trẻ em

Ung thư máu ở trẻ em là một trong những loại Ung thư phổ biến nhất ở trẻ em, chiếm khoảng 30% tổng số ca mắc. Trong số trẻ em bị Ung thư máu, 75% trong số đó mắc bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp tính (ALL) trong khi bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính có tỷ lệ mắc cao nhất ở người lớn. Nguyên nhân chính xác của TẤT CẢ vẫn chưa được biết và đau, sốt, thiếu máu và chảy máu là những triệu chứng chính.

2. Phân bổ tỷ lệ mắc Ung thư ở trẻ em với các phương pháp điều trị hiệu quả

Tất cả trẻ em có thể được chữa khỏi bằng điều trị chống Ung thư. Liệu pháp truyền thống đã sử dụng các phương pháp điều trị đã được phát triển từ lâu. Gần đây, liệu pháp điều trị phù hợp đã được giới thiệu thông qua nghiên cứu tiền cứu đã xác định được sự kết hợp hiệu quả giữa các loại thuốc chống Ung thư và thời điểm cũng như thời gian điều trị tối ưu. Kết quả là, tỷ lệ sống sót chung đã tăng từ 10% vào năm 1960 lên hơn 80% vào những năm 1990.

3. Đánh giá chính xác tiên lượng bằng cách quan sát đột biến gen

Điều chỉnh liều là rất quan trọng để tăng tỷ lệ khỏi bệnh. Vào những năm 1980, các bệnh bắt đầu được phân loại theo đột biến gen. Kể từ những năm 1990, kết quả điều trị đã được cải thiện hơn nữa khi đánh giá tiên lượng chính xác hơn nhờ sự phát triển của dược động học và di truyền học phân tử.

Kể từ những năm 2000, một đột biến di truyền mới liên quan đến tiên lượng đã được phát hiện và các kỹ thuật đo lường bệnh bạch cầu còn sót lại đã được nâng cao. Với chiến lược điều trị mới, tỷ lệ sống sót chung của TẤT CẢ đã vượt quá 90%. Bệnh còn sót lại tối thiểu (MRD) rất quan trọng trong việc thiết lập kế hoạch điều trị vì nó có liên quan chặt chẽ với sự tái phát của bệnh bạch cầu. Hơn nữa, liệu pháp nhắm mục tiêu đã được phát triển, cho phép các bác sĩ thiết lập kế hoạch điều trị đa dạng.

Vì tuổi thọ của những người sống sót sau Ung thư ở trẻ em tương đối dài hơn so với những người trưởng thành sống sót, điều quan trọng là giảm độc tính của điều trị Ung thư để giảm thiểu phản ứng muộn. Các liệu pháp nhắm mục tiêu hiện tại tấn công các tế bào khối u và ít ảnh hưởng đến các cơ quan khác với một số biến chứng lâu dài. Do đó, nếu các liệu pháp được cung cấp ở giai đoạn đầu sau khi chẩn đoán ban đầu, tỷ lệ chữa khỏi có thể được cải thiện đáng kể và giảm độc tính điều trị. Tuy nhiên, ngay cả sau khi các phương pháp điều trị Ung thư mới được chứng minh là an toàn và hiệu quả ở người lớn thông qua các thử nghiệm lâm sàng, thì cũng phải mất một thời gian dài chúng mới được áp dụng trong điều trị nhi khoa. Hơn nữa, hầu hết chúng đều rất đắt tiền.

4. Phân tích dữ liệu lớn, một công cụ để chữa bệnh bạch cầu

Mối quan hệ giữa đột biến gen và tiên lượng đã được tiết lộ trong các nghiên cứu gần đây. Các nhà khoa học đã nghiên cứu về tình trạng kháng thuốc và lý do tại sao từng bệnh nhân có phản ứng thuốc khác nhau. Vì đột biến gen được cho là chìa khóa của liệu pháp nhắm mục tiêu, các đặc điểm của bệnh bạch cầu ở trẻ em ở bệnh nhân trong nước cần được phân tích do bệnh phát triển khác nhau theo độ tuổi và dân tộc. Điều trị cá nhân hóa được phát triển dựa trên chiến lược điều trị đa dạng và phân tích dữ liệu lớn có thể là chìa khóa để chữa bệnh bạch cầu.

5. Riêng những nghiên cứu độc quyền của bệnh viện Seoul St. Mary chứng minh giá trị tiên lượng về bệnh còn lại có thể đo lường được trong bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính

Bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính (AML), một trong những loại bệnh bạch cầu cấp tính phổ biến nhất, có đặc điểm đa hình di truyền tế bào, có nghĩa là các tế bào Ung thư bạch cầu đa dạng với các đặc điểm di truyền khác nhau được tìm thấy ở một bệnh nhân.

Các đột biến gen của tế bào Ung thư bạch cầu cần được phân tích chính xác để đưa ra phương án điều trị phù hợp vì chúng có liên quan mật thiết đến tiên lượng của bệnh.

Một nhóm nghiên cứu của giáo sư Cho và Kim gần đây đã phát triển giải trình tự thế hệ tiếp theo (NGS) để đo bệnh còn sót lại ở mức tối thiểu (MRD), yếu tố nguy cơ tái phát và dự đoán khả năng sống sót cũng như tái phát giá. Các kết quả nghiên cứu dự kiến ​​sẽ đóng góp vào sự tiến bộ của y học chính xác. Những bệnh nhân được phát hiện MRD trước và một tháng sau HSCT cho thấy tỷ lệ tái phát cao đáng kể và tỷ lệ sống sót thấp.

Nghiên cứu đã đánh giá thông tin lâm sàng và mẫu bệnh nhân đã đăng ký trong hai đoàn hệ tương lai để nâng cao độ tin cậy của dữ liệu. MRD đã được phát hiện tại các thời điểm khác nhau sau HSCT để đánh giá các thay đổi động về trạng thái MRD, điều này làm cho nghiên cứu này khác với các nghiên cứu trước đó.

Một trong những phát triển đáng chú ý nhất trong nghiên cứu bệnh bạch cầu là giải trình tự bộ gen tiên tiến. NGS đã xác định các đột biến mới xảy ra lặp đi lặp lại trong bệnh bạch cầu, giúp hiểu sâu hơn về cơ chế bệnh sinh. Hơn nữa, phân tích đột biến đã cải thiện độ chính xác của dự đoán tiên lượng. Các bệnh nhân riêng lẻ, thậm chí có cùng đột biến, có sự khác biệt về tình trạng bệnh lý, chức năng cơ quan và chuyển hóa thuốc. Đó là lý do tại sao nên đánh giá MRD cho từng bệnh nhân để dự đoán tiên lượng chính xác.

Phương pháp thông thường sử dụng mẫu tủy xương sau điều trị để xác định tế bào Ung thư bạch cầu qua kính hiển vi, nhưng độ chính xác thấp và kết quả không nhất quán tùy thuộc vào người khám là những nhược điểm nghiêm trọng. Hiện tại, phân tích bộ gen đơn (PCR) và tế bào học dòng chảy được sử dụng để đánh giá chính xác và khách quan về MRD.

Tuy nhiên, vì bệnh nhân mắc AML thường có nhiều đột biến khác nhau nên không thể thực hiện PCR trên tất cả bệnh nhân. Flow cytometry đòi hỏi các chuyên gia có tay nghề cao và khó chuẩn hóa nên khó áp dụng ở mọi bệnh viện.

NGS, được sử dụng trong nghiên cứu, có thể đo đồng thời nhiều đột biến khác nhau và thực hiện phân tích định lượng. Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu phương pháp này để cải thiện chẩn đoán bệnh bạch cầu và tăng độ chính xác của đánh giá đáp ứng sau điều trị.

Bệnh viện St. Mary ở Seoul đã phát triển NGS của riêng mình và sử dụng nó để xác định 67 đột biến gen liên quan đến AML. Phương pháp này đã được áp dụng cho một mô hình dự đoán tiên lượng tiên tiến cho thực hành lâm sàng. 
 


Hãy liên hệ với MANAM – Đối Tác Y Tế Toàn Cầu để được tư vấn chi tiết:

- Fanpage: www.facebook.com/manam.vn

- Văn Phòng Tạm:  15F, Tháp A SaiGon Royal  34-35 Bến Vân Đồn, Quận 4, TP. Hồ Chí Minh

-Tổng đài: 0283 920 77 88

- Hotline: 08 9988 7790


►LƯU Ý:

Tất cả dịch vụ tư vấn hỗ trợ của MANAM là Hoàn Toàn Miễn Phí. Bệnh nhân chỉ cần thanh toán các chi phí như: phí chuyển phát nhanh, phí dịch hồ sơ bệnh án, phí xét nghiệm,..